Kinh Vu Lan Và Báo Hiếu
KINH
BÁO HIẾU và VU LAN
______________________________________________________
NGHI THỨC TỤNG
KINH VU LAN
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gửi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi tam bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ-đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
(xá rồi đọc tiếp bài Kỳ Nguyện)
KỲ NGUYỆN
Nay chính là ngày chư Tăng mãn hạ, đem đức lành phổ hóa chúng sanh. Chúng con một dạ chí thành, cúng dường, cùng trì tụng đem công đức nầy, nguyện khắp mười phương, ba ngôi tam bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đức tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật,cùng các vị Bồ tát tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh, sớn rõ đường lành, thoát vòng mê muội,ra khỏi u đồ,siêu sanh lạc quốc,ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo. (3 lần)
(đứng dậy cắm hương và đọc lại kệ Tán Thán Phật)
TÁN THÁN PHẬT
Đấng pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời,người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán than
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y
(Xá 3 xá rồi xướng lạy)
ĐẢNH LỄ
Chíu tâm đảnh lễ, Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vi lai Thập phương chư Phật,Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ; Nam mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đành lễ; Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
(đứng hay ngồi tụng tùy ý, vô chuông mõ đồng tụng)
TÁN LƯ HƯƠNG
Kinh lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Các Phật biết rõ ngọn hương chí thiền
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Vòi vọi trên không pháp thẩm sâu
Trăn ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm màu
Nammô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)
PHẬT NÓI
KINH VU LAN BỒN
TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân,
Công dưỡng dục thân ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên,
Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài,
Mục Liên thấy vậy bi ai,
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,
Thấy con, mẹ rất lo âu.
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa đến miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu,
Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
Mục Kiền Liên bị cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng đường,
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nạn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần lực nhiệm màu,
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang dồn thấu đến Cửu Thiền
Cùng là các bậc Thần kỳ.
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập.
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi,
Muốn cho cứu đặng mạng người.
Phải nhờ thần lực của mười phương
Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục Thị đến gần,
Truyền chi diệu pháp ân cần thiết thi,
Rằn tháng bảy là ngày Tự tứ.
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Thức ăn trăm món,trái cây năm màu
Lại phải sắm gường, nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đưốc, nhang dầu
Món ăn tinh, sạch báu mầu
Đựng trong bình bát Vọng cầu kính dâng
ChưĐại đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dù ở đâu cũng tụ hội về.
Như người Thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quí ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác,Thỉnh Văn giác
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Đạo đức dày chánh định chân tâm
Tất cả các bực Thánh, phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng đường Tự tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bách niên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng
châu thân
Phật dạy bảo mười phưong tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau nầy:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mời dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chưtăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cùng nhờ oai thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ kheo nam nữ
Cùng Quốc vương,Thái tử Đại thần
Tam công, tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cỗi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến Rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật đà hoan kỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự tứ chúng tăng cúng dường
Đặng cầu nguyện song đường
trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỉ sanh về nhơn thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu Hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngỏ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân
buổi đầu
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài
Nammô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
(3 lần)
KINH ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
TÁN HƯƠNG
Lư hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
ChưPhật hải hội tất dao vân.
Tùy xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân,
ChưPhật hiện toàn thân.
Nammô Hương Vân cái Bồ tát
ma ha tát (3 lần)
KHAI KINH KỆ
Pháp Phật cao sâu rất nhiệm màu
Nghìn muôn ức kiếp dễ gặp đâu
Nay con nghe thấy xin chăm tụng,
Mong Đức Như Lai chỉ nghĩa mầu
Kính Lạy đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần)
PHẬT NÓI KINH
ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Tôi nghe thế nầy: Một thời Phật ở trong Tinh xá,Vườn Cấp cô độc,cây của Kỳ đà, cùng các Tăng già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người cùng chư Bồ tát.
Bấy giờ Thế Tôn, cùng với Đại chúng, nhân buổi nhàn du, đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Đức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương khô ấy.
Tôi bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn,Ngài ở trên ngôi chí Tôn,chí Quý,thầy cả ba cõi, cha lành bốn loài, thiên thượng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống sương khô kia.
- Nầy A Nan ơi! Người tuy xuất gia,theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe, đã rộng rãi đâu, đống xương khô ấy, hoặc là ông bà, hay là cha mẹ,thần trước của ta, ngàn muốn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế ta nay, chí thành kính lễ.Người đem xương này, chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
- Bạch Đức Thế Tôn, con xem ở đời, phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra đấy là nam giới, những người con gái, hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới.Nay người đã chết, xương trắng một màu, chúng con biết đâu, mà phân biệt được.
ĐÂY LÀ LỜI PHẬT
-Này A Nan con, về bên nam giới, trong lúc bình sinh, thường thường lui tới, những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên, nghe Kinh lễ Phật kính mến Tăng già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật bao nhiêu xương trắng,nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới, còn như nữ giới, trong lúc bình sinh, nhiền lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sữa ở trong mình, giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói,thương xót vô cùng,như dao cắt ruột; nước mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
-Lạy đức Thế Tôn, công ơn cha mẹ, như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Đức Phật, rủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
- Nầy A Nan con! Về ân đức mẹ. trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không kể xiết.
Khi vừa một tháng ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương, dính trên hạt cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tiêu tan, khó lòng giữ được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới mang hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ năm hình chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu can mới đủ, mắt tai mũi lưỡi, thân hình và ý.
Khi được bảy tháng,ở trong thai mẹ,mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi, những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chí khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người, ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí,không ăn hoa quả cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi, gồm có ba quả. Một là Tu Di, hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời, hóa ra dòng máu, rót vào trọng miệng.
Ở trong thai mẹ,trong vòng mười tháng,trăm phần toàn vẹn mới đến ngày sinh. Nếu có con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc dẫy giụa bải bơi, khiến đau lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho xiết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay,yêu thay mến thay !
Phật bảo A Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu.
Nhứng gì là mười ?
1) Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
2) Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
3) Nhơ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả lo âu.
4) Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhỏ miếng ngọt dành dụm cho con.
5) Nhớ lại công ơn,chỗ ướt mẹ nằm,chỗ ráo xê con.
6) Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
7) Nhớ ơn mẹ ta,giặt đệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi, mẹ đành cam chịu
8) Nhớ ơn mẹ ta,khi đi đâu xa,vì thương nhớ con trong lòng cầy cậy, một chút chẳng ngơi.
9) Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng, tạo bạo ác nghiệp.
10) Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ĐỆ NHỨT ÂN:
CHÍN THÁNG MUỜI NGÀY
CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp,duyên cùng nợ:
Ngày nay, mới vào thai,
Đầy tháng, sanh phủ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai,
Thân trong như non Thái
Động tĩnh, sợ phong thai
Áo the, đành xốc xếch,
Gương lựơc, biếng trang đài.
ĐỆ NHỊ ÂN:
KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Đứng ngồi,coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi,lo,cùng lắng;
Từ sanh, giờ phút này!
ĐỆ TAM ÂN:
ÂN SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở
Thân thể, đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me,chan hòa đầy,
Chờ nghe thấy con khoc;
Lòng mẹ mừng rõ thay!
Đương mừng, lo lại đến!
Rầu rĩ,ruột gan này.
ĐỆ TỨ ÂN:
ĂN ĐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi,
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu, tay chẳng rời
Những mong con no ấm;
Mẹ đói, rách cũng vui
ĐỆ NGŨ ÂN:
XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình, nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo, để xê con,
Hai vú,phòng đói khái
Hai tay, ủ gió sương
Thâu đêm, nằm chẳng ngủ;
Nâng niu, tựa ngọc vàng
Những mong, con vui vẻ;
Lòng mẹ, mới được yên.
ĐỆ LỤC ÂN:
BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Đức mẹ, dày như đất,
Công cha, thẳm tựa trời.
Chở che, coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù điếc!
Chẳng hiềm, quắp, chân tay!
Bởi vì, con ruột thịt;
Trọn đời dạ chẳng khuây
ĐỆ THẤT ÂN:
TẮM GỘI GIẶT GIŨ
Vốn người, có nhan sắc;
Lại thêm, phấn sáp xông,
Mày xanh, như liễu lục;
Má đỏ, tựa sen hồng,
Giặt giũ, khăn cùng tã;
Dáy dơ,chẳng quản công
Cốt sao, quần áo sạch,
Búi tóc gọn là xong.
ĐỆ BÁT ÂN:
ĐI XA LÒNG MẸ NHỚ THƯƠNG
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly,dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày, đêm thương tưởng nhớ;
Sớm, tối vẫn vấn vương
Như vượn,thương con đỏ,
Khúc, khúc, đoạn can trường?...
ĐỀ CỨU ÂN:
VÌ SANH CON MÀ LÒNG TẠO BAO
ÁC NGHIỆP
Mẹ trải bao gian khổ,
Công lao, tựa vực trời.
Bồng bế, cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi,
Nhường cơm, cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách, cũng vui!
Khôn lớn, tình đôi lứa;
Gây dựng cho nên người.
ĐỆ THẬP ÂN:
MẸ TRỌN ĐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha,cùng đức mẹ;
Cao sâu,tựa vực Trời,
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương, con tám mươi
Bao giờ, ân oán hết?
Tắt nghỉ, cũng chẳng thôi…
Phật bảo: A Nan: ta xem chúng sanh,dẫu làm được người, lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh ngày tháng thoi đưa, đến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô thường, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân này, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặt giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tâm khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu,dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc cho ăn đi học tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chỉ, chẳng kể gì công.
Trái gió dở trời, tuần trăng cuốn gió bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, bệnh con có khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giường đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha chú bác ông bà, cô gì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửu bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gửi, nói năng càn rở, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thấy trên cũng mặc! Bé thì ai chấp; người những nâng niu, dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân hận, bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dỗ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người, lại hay rong chơi, bị người lừa gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia đình, tù lao cầm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kề thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị người khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai tang, chương phềnh, thối nát, giãi nắng dầu mưa, hài cốt bãi bừa, chó cầy nhai xé!...
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai, khư khư giữ mãi.
Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi, nay đây mai đó, cùng bạn vô loài, làm điều vô ích, giao du trộm cắp chẳng sợ lệ làng, chè riệu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Đông, rét run bức bối, chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh, quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt mười con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luôn những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò võ, mùa đông sương gió rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán, tự thương!
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ rằng ngượng rằng e, sợ kẻ cười chê, ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo phải đúng như lời, cha mẹ hết hơi, không hề hối cải.
Đây là con gái, khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gả bán, về ở nhà người, một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dụ mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửu nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thận trọng, mẹ cha máu mủ thì lại sơ tình.
Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lìa, làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thường nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những hang hang, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Đại chúng, nghe Phật nói ra,công đức mẹ cha cao tầy non Thái, đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đạp đầu lăn khóc, máu me trào dạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy khổ thay khổ thay! Đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa đâu có biết, mờ như đêm tối, ngày nay biết hối thì sự đã rồi, đau đớn lòng tôi, trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha, Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Đại chúng rằng:
1) Vì có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi, suốt cả mọi nơi,trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được, công đức mẹ cha kể trong muôn một.
2) Ví lại có người gặp khi đói kém,cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nan, riêng mình cam chịu thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
3) Ví lại có người trả trăm nghìn kiếp tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
4) Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện làm thang thuốc, chữa bệnh cho mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
5) Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
6) Ví lại có người,trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật như thế cũng là,chưa trả được ân kể trong muôn một.
7) Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, dập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
8) Ví lại có người, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sẽm cả mình, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Đại chúng nghe Phật nói rồi, trong dạ bồi hồi, ruột đau như cắt, hai hàng nước mắt, tầm tã như mưa, mà bạch Phật rằng: con muốn đền ơn, công đức cha mẹ, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo?
Đức Phật liền bảo: Cặn kẽ mọi lời, này chúng sinh ơi, muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh này, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng.
Hai vì cha mẹ đọc tụng kinh này, chuyên cần chớ đoạn
Ba vì mẹ cha, sám hối làm chay
Bốn vì mẹ cha, cúng dường Tam Bảo, tùy ý sở dùng.
Năm vì mẹ cha, trong sáu ngày Trai, phải nên nhớ giữ.
Sáu vì mẹ cha, thường hay bố thí, làm mọi việc lành.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được mẹ cha siêu thăng Cực Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A Nan ở trên thế gian, những người bất hiếu sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất; còn phần linh giác, là cái chân thân, phải vào địa ngục Chính ngục A Tỳ,vuông rộng tứ vi,tám ngàn cây số, bốn mặt lại có, tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân. Lại còn nước đồng, đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng, những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi vã mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải trăm nghìn kiếp, không phút nào nguôi, hết hạn ấy rồi, lại vào ngục khác.
Đầu đội chậu máu, xe sắt nghiến thây,mình mẩy chân, tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu, Phật lại dạy rằng: vì vậy Thiện nam, hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh này ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một đức Phật, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về, phương Cực Lạc,đây là lời Phật, chớ có coi thường, Địa ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi!
Bấy giờ A Nan cùng chư Đại chúng, Trời, Rồng, Thần, Quỉ, Dạ xoa, La sát, người cùng phi nhân được nghe Phật nói, đều phát nguyện rằng:
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên, lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, chao trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối, con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên, lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quấn chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên, lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ, thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương,rơi rớt ngoài đường, trong nhà ngoài ngõ; trải trăm nghìn kiếp,chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên, lời chư Phật dạy.
Khi ấy A Nan, liền bạch Phật rằng: Lạy đức thế tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây, đều muốn tụng trì, có được hay chăng.Đức Phật dạy rằng, Chúng con nên biết:
Kinh này là Kinh Đạo báo Phụ mẫu trọng ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng, khi ấy Đại chúng, nghe Phật nói rồi, tin kính phụng hành lễ tạ mà lui.
1) Kính lạy Đại báo phụ mẫu trọng ân Kinh.
2) Kính lạy Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
3) Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
4) Kính lạy Đức Ma Gia Đại Thánh Mẫu.
5) Kính lạy Ngài Quang Mục Đại Thánh Nữ.
6) Kính Lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
7) Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
8) Kính lạy chư vị Bồ tát đã đền ân cha mẹ.
9) Kính lạy Phật Từ Di Mẫu,Kiều Đàm Di đại Bồ tát.
10) Kính lạy Thầy Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh này.
MA HA BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA TÂM KINH
Khi ngài Quán tự Tại Bồ tát thực hành sâu sa pháp Bát nhã ba la mật đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.
Nầy ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này ông Xá Lợi Tử! Tướng “không” của mọi pháp, không sinh không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.
Cho nên trong “chân không” không có sắc không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc, bởi vì vô sở đắc.
Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa nên tâm không quản ngại, vì không quản ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.
Ba đời Chư Phật y vào Bát nhã ba la mật đa, nên được đạo quả vô thượng chính đẳng chính giác.
Cho nên biết Bát Nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ,chân thực không hư.
Vì vậy nói chú Bát nhã ba la mật đa,liền nói bài chú ấy rằng: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” (3 lần)
NIỆM PHẬT
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín Phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ
Nammô Tây Phương An Lạc Thế Giới
Đại từ Đại Bi, tiếp dẫn đạo sư
A Di Đà Phật
Nammô A Di Đà Phật (108 biến)
Nammô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Nammô Đại thế Chí Bồ Tát (3 lần)
Nammô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)
Nammô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
(3 lần)
PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập. Phổ
Hiền Bồ Tát 10 chúng đại nguyện.
Một là lễ kính Chư Phật
Hai là Xưng Tán Như Lai
Ba là rộng tu cúng đường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường theo Phật học
Chín là tùy thuận chúng sinh
Mười là khắp đều hồi hướng
SÁM MỤC LIÊN
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem vòng thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn ngàn
ốm gầy đói khát trong đàng quỉ ma,
Mục Liên kêu mẹ khóc la,
Đau lòng thương mẹ đọa sa diêm đình
Thanh đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình,
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ người tội nặng sâu xa nghiệp hành
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú quyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên điều hòa
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày Rằm tháng bảy lập đàn trai tăng
Sắm cơm trăm món đồ ăn,
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ rang
Chiếc giường bốn nước mùng màn
Dầu, đường trà lá, bạc vàng đựng cơm
Những đồ vật quí bông thơm,
Thành tâm dọn tiệc, Lan Bồn phân minh
Cúng đường Tam Bảo cầu kinh
Chưtăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái ban chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng bảy thành tiên về trời
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng
Trời cao đất rộng mênh mông,
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái Sơn
Tu hành báo tử trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ thời.
Nguyện cầu thí chủ khắp nơi
Cửu huyền thất tổ đồng thời vãng sanh
Sen vàng chín phẩm nên danh
Về nơi tịnh độ đến thành lạc bang
Nguyện cho quốc thới dân an
Khắp cùng pháp giới đạo tràng tịnh thanh
Nguyện cùng cả thảy chúng sanh
Đông lo tu niệm vãng sanh sen vàng
HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí chân minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo,
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên Hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thổi Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo
TAM QUY Y
- Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thế giả đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
- Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thầm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải (1 lạy)
- Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, nhất thiết vô ngại